ĐẠI-NAM (ĐĂNG-CỔ-TÙNG-BÁO)
Số 820 Ngày 03-10-1907
HỘI KIẾP BẠC
Hôm
ặ tháng tám này, bây giờ lại nhân
dược xe-lửa, tầu-thủy tiện
và nhanh, tôi có đi ra ngoài Kiếp-bạc
trước là để ngưỡng-vọng
cái ảnh-tượng một ông
tướng-tai nước Nam đã
đánh và bắt được
Thoát-Hoan nhà Nguyên, đã giết dược
tướng-tầu Toan-Đô, Phạm-Nhan, làm cho
dân h̀n nước Nam thời nay dở
Nam-sử ra cũng hả bụng một chút
rằng : ông cha khi xưa cũng không đến
nỗi hèn hạ lắm; sau nữa để
xem cho kỹ sự bắt tà bắt ma
hậu thế đơn bạc vẽ vời ra
để buôn bán th́anh thần.
Xe
lửa mấy hôm kiếm cũng khá, mỗi
truyến toa nào toa ấy chật nìch những
người.
Gớm
ghê sao mà đẹp thế ! Sông lượn
khúc, núi tay-ngang. Đền ở giữa,
cửa tam-quan cao đẹp, thực khéo khuôn
vào cảnh tự-nhiên. Đơn sơ mà
dẹp. Khen người vẽ kiểu cũng
đã bắt chiếc một hai ý Thái-Tây.
Xem ra thì tam-quan của quan Nguyễn-Cẩn làm ra.
Hai đầu núi có hai chùa thường hay
gọi là chùa Nam-tào, chùa
Bắc-đẩu. Trèo lên trông xuống thực
là ngoạn-mục.
Trước
cửa đền, giáp bờ sông có mấy
cái quán rơm cất lên để tiếp
khách vào đền.
Từ
hôm mồng mười đến giờ là
cứ rầm rập, mỗi ngày hàng ngót
một vạn người kéo đến.
Người thì cũng như tôi đến
ngắm cảnh, và nhân một ngày
kỷ-niệm mà thăm một điện để
lưu danh một ông Thánh-tướng
nước Nam; người thì đến
nhờ bóng Thánh trừ đuổi tà
ma ám mình; người đói bụng nhân
lúc đô hội người, -ến kiếm
đồng cơm đồng cháo, ngồi la liệt
một rẫy từ bờ sông đến
cửa đền; người thì nhân chỗ
đông đến dật khăn túi những
kẻ mê Thánh quên dớ lưng : người
đén xem người : nơi thần thánh
là chỗ tình cờ lắm khi Giời
thương Thánh độ đi cầu con lại
được cả chồng; cũng có
người thì đến đấy là
tại thấy cứ đến năm ngày ấy
có người đến đấy thì
mình cũng đến.
Ngoài
sông thì một dẫy thuyền châu mũi vào,
vốn là các điện ở các nơi
rước đến. Bờ sông thì
người đi lại chật ních, ở
giữa một anh lòa đắt chó,
khéo len để quẩn người vô tình,
họa may có trông xuống. Các hàng cơm,
hàng nước thì muôn vạn người
nghỉ chân, cơm cá dán, nước chè
tươi. Các chú Khách thì
nước-chanh, thuốc-lá, hương vàng,
khen thay khéo dỗ kẻ tín-mị. Nào
Lương-vĩnh-hanh, nào Hứa-thiên-văn,
Quảng-hợp-ích, hương khói thâu
thập bát chúng thiên ở đây chưa ai biết.
Ở
sau chùa thì ước chừng vài
trăm đám bốn năm người một,
người trống, người mõ,
người thanh-la, suốt ngày suốt đêm không
dứt hồi. Dây tà dương ốp, dó
dã gần thú. Người –ấm ngực,
kẻ vật mình, thầy đồng thì tay
cờ tay kiếm, hò hét sai bảo các quan,
tựa như làm trò chuyền-ý ở
các phiên chợ nhà-quê bên Pháp, nhưng
chỉ khác rằng những thầy
chuyền-ý làm ra sự lạ biết tại
làm sao, còn các thầy đồng ta thì
miệng chuyền thấy linh ứng nhưng cũng
chẳng biết tại bởi đâu, có khi
mình cũng tin rằng Thánh giáng.
Trong
đền thì vàng hương đốt khói
ngào ngạt, cửa cung thì mấy anh kỷ
mục đứng vòi năm bẩ su, một
vài hào thì mới cho các
đệ-tử vào lễ.
Lợn,
gà, sôi, chuối, bưng vào từng trãm
ngàn mâm, vái chưa xong mấy ông ký-dịch
đã dao-phay-bầu đứng trực, ra
một bước là chuối đã mất
nửa.
Hai
dẫy nhà bên thực rỏ ra một cửa
hàng. Dân anh dân em đâu kéo cả làng
Kiếp-bạc ra, người thì buôn bùa dâu,
người thi bán tàn hương, anh thì
cho thuê chỗ bắt tà.
Giường
thì hai dẫi bàn đèn, tiền sôi gà
bán cho các hàng thiếu chi, các quan viên tha
hồ mà nạo sái.
Các
chú-quyền thầy-cai quan sai đến, ý
dáng để canh gác, thầy thì mở
sóc đĩa, thầy thì dúp thánh làn
khổ tà non.
Hội
thì vui, cảnh thì đẹp, người
thì đông, nhưnh chỉ phải cái bẩn
thỉu thì chỗ Kiếp-bạc khồng đâu
bằng. Trong sân đến thực quá
truồng lợn. Vàng hương đốt khói
mù lên mà cũng không khỏi được
những mùi ô uế, nào vỏ chuối,
nào xương gà, rắc đầy
mặt đất.
Hai
bên đường đi thì người
đại-tiện, người tiểu-tiện,
đến nỗi chỗ đềng không như chỗ
ấy mà đứng đâu cũng ngạt mùi
dơ bửn. Ở vệ sông thì nào
lòng gà vỏ chuối, ruồi bâu nhặng
quấy, hôi hám gớm ghiếc.
Người
ở xứ ấy thì thực là
xứng với tên làng Kiếp-bạc. Buôn
thần bán thánh, đầu năm chí cuối,
chỉ nhờ vào mấy hôm tết, ăn uống,
hút sách cho nôn oệ ra, rồi xong hội chia nhau
chẳng đều đến đi kiện đi
thưa, đánh nhau chí mạng, đốt
cửa đốt nhà, rồi người
đa-tín lại để ra là tại ý
thánh.
Rõ
hoài của ! cho cái làng ấy : đất
đẹp, địa thế buôn bán dược,
mà chỉ vì cái lợi thánh cho ấy
nên không có nghề có nghiệp gì, chỉ châu
nhau vào làm lính lệ thánh.
Quả
thế, cách cục chúng nó ở trong
chùa, sử với những người
đi lễ bái, thực y như là cách
lính lệ. Ai tiền không có thì đóng
cửa chùa không cho lỡi.
Còn
như sự đồng c̀́t thì tôi
định đi đến để mà tìm
cách ngân can người ngu dốt, nhưnh cũng
may, tôi trông thấy sự này thực
mừng lắm.
Phàm
các chị đi bắt tà, là, phi
vợ lính-tập, vợ bồi, thì là
những người đê tiện, chớ
người tử-tế không thấy một
người nào. Còn những các ông
Đồng bà Đồng thì là rặt
những người có bịnh điên
quồng hoặc là người dốt nát
cả.
Y
giáng cũng vì thế cho nên ông
Trần-hưng-Đạo cũng không dận lằm,
chớ giá thử người có
chữ nghĩa khôn ngoan, mà lại đổ cho ông
ấy dận vô-cùng nước Nam đơn
bạc :
« Công trạng với
nước bao nhiêu, đén khi chết, nó
lại bắt mình làm nghề lạ ! Tài
đánh giặc Nguyên ai lại đem ra dùng
trừ hâụ-sản !!! »
TÂN – NAM – TỬ