ĐỐT
PHÁO
Lời thưa cuả
người thực hiện: chúng tôi dựa trên bản chụp lại và
cố gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ
theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày nay th́ bài
văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp
chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và những chỗ chấm, phẩy
và viết hoa. Không rơ những chỗ sai này do cụ Vĩnh
lầm, hay do hồi đó
chưa có luật lệ rơ rệt, hoặc gỉa cụ
Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm cuả
ḿnh; vấn đề này mong được các học
gỉa nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực
hiện chỉ mong thấy sao chép vậy, v́ chúng tôi quan
niệm những bài viết này, ra đời cách nay trên
dưới 100 năm, vào
thời kỳ phôi thai cuả Việt ngữ, nên mang ít nhiều
tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố
gắng giũ đúng nguyên bản
v́ chúng tôi chỉ có bản chụp; bản chính
được h́nh thành cách nay non một thế kỷ, vào
lúc kỹ nghệ in ấn và giấy mực c̣n thô sơ,
rồi tài liệu đuợc lưu trữ gần một
thế kỷ nên ngay bản chính cũng đă mờ
nhạt; nay chúng tôi có bản chụp cuả bản mờ
nhạt nên không tránh khỏi
có những chỗ không thể nào phân biệt được
chữ ǵ, dù đă dùng đến kính phóng đại. Trong
trường hợp đó,
chúng tôi chỉ c̣n cách dựa trên ngữ cảnh mà
đoán.
Hiện chúng tôi đang sưu
tầm thêm những tài liệu về cụ Nguyễn
Văn Vĩnh, quư vị nào có xin liên lạc nguyenhongphuc54@yahoo.com . Xin đa tạ
Kính báo.
Việc này đáng
nhẽ để đến tháng chạp hăi bàn th́ phải,
nhưng bây giờ là mùa cưới, pháo cũng đă sinh ra
nhiều sự nên nói để anh em đồng–bào nhớ
lấy, đến khi Bản–báo có luận đến, th́
những sự thực cũng làm cho nặng thêm nhời
chúng tôi lên một ít nữa.
Hôm nọ ở phố hàng Điếu, có đám
cưới. Lúc rước
dâu về đến cửa, nhà giai sắm sửa đón
hai họ vào thực là vui vẻ; giữa lối đi th́
cũng giữ lệ đốt ḷ than để cô dâu
bước qua cho sạch viá–van; mẹ chồng cũng theo
thói trốn sang láng–giềng để dâu về
được hưởng quyền vu–qui một chốc
cho khỏi thất–hiếu; ngoài đường th́ xe xe
ngựa ngựa sắp hàng; các ông các bà hai họ, ông th́ áo
gấm bà th́ áo vóc, đây vài ông duy–tân bận áo nái
Trần–văn–Phúc, đội mũ
Đông–thành–xương, đi giầy vàng phố
Phúc–kiến. Vài ba ông cụ già mặc áo thụng xanh, đi
có lọng che cầm hương thơm
Quảng–hợp–ích. Đám cưới thực ra một
đám cưới duy–tân, và có ư bảo–nghiệp, duy có cái
pháo vẫn c̣n giữ lối bắt chước các chú.
Lạch–đạch trong nhà trán rồi lại treo thêm
một bánh ra mái hiên cửa gọi là làm lệ để
dâu vào được đi qua hỉ–khí.
Bất ngờ đương
lạch–đạch tạch–đùng có một cái xe
độc–mă đi qua : trên xe một vị thiếu–niên
ngồi, chẳng biết ông
Phán sở nào. Như người ta thấy pháo th́ hăng
đứng lại xa xa một quăng xong rồi hăi đi. Ông
phán ta lại vội quá, vả nhân có đám các bà các cô
lịch–sự, ta cũng làm ra mặt đánh xe rỏi
lấy sĩ–diện chơi. Roi dây đánh đen–đét.
Phải con ngựa cũng ác ! Vừa tiếng pháo vừa
tiếng roi, ngựa sợ
lồng phách măi lên, long mất hai cái tay xe với cái ván. Hai
bên hàng–phố ai trông thấy cũng bảo : đáng
kiếp, và cười ồ cả lên. Nhưng mà ông Phán ta
có phải là người chịu hèn đâu, ngài đi t́m
ngay một ông Tây đến, chẳng biết ngài nói
với ông Tây thế nào, ông Tây đến gọi chủ nhà
ra đánh một hồi, rồi cho hai người
đội–xếp đến bắt đem lên bóp
Hàng–dậu. Lên đó rồi ông Cẩm bắt phải
đền 50$, ông chủ nhà lậy van măi phải
đền 30$ mà thôi.
Việc phải đền ấy, phải trái
thế nào tôi cũng xin không luận làm chi. Ông phán ấy
đi huỳnh xe mượn, cầm cương chẳng
nên thân, hoặc cầm tài nhưng bánh–pháo láo thành ra gần
đến nơi không tịt lại, cứ cố trí
lẹt–đẹt măi để cho ngựa lồng, th́
sự ngày nào chẳng ra như thế, cũng không nên nói.
Duy có cái điều đốt pháo là thậm
giă–man, thậm hay sinh phiền, thậm vô–lư, th́ anh em ta nên
bỏ dứt hẳn đi.
Ngày xưa kia, cáng làm xe, người làm ngựa,
th́ cái pháo không sinh ra được những sự
phiền–nhiễu như bây giờ. Hai nữa là pháo ḿnh
không chế được ra, mỗi một năm vừa
cưới xin, mừng rỡ tết nhất mua của
chú–khách không biết là bao nhiêu vạn bạc nữa; mà
chẳng thà mất đồng tiền nó có to béo ra
được chút nào, đốt nó có ra tiếng
lưu–thủy huân–phong ǵ, tám hào bạc một bánh pháo
Hạnh–hoa, vừa được nửa phút, vừa
điếc cả tai, ngạt cả mũi, toét cả
mắt, cháy quần cháy áo, cháy chân cháy tay, mà có lúc cháy cả
đến cửa nhà hàng–sóm láng–giềng; trẻ con c̣n bé có
đứa sợ hăi sinh sài sinh ốm; mất cả câu
truyện, không c̣n được việc ǵ; nghĩ
đến cái thứ ấy là thậm không có nghĩa–lư ǵ.
Khốn nhưng mà không có pháo th́ những chú–khách
sang đây tay mang dù rách, tay sách chăn–bông làm thế nào mà
về Tầu có cửa có nhà có ruộng có nương
được ? Không có pháo, ai bảo ḿnh rằng giầu
có ngàn có vạn ? Không có pháo th́ sao thằng ăn–mày ba
bữa không được hột cơm nó đến
chực cửa, sao nó biết được rằng ḿnh
hơn nó nhiều ? Sao nó biết được rằng
bụng nó lép bao nhiêu ḿnh có thừa tiền đốt ra
khói bấy nhiêu ? Không có pháo; làm thế nào được
cho quan tưởng cướp đem lính về vây làng
như quan Thái–Bộc Cử–đá hôm nọ ? Lại không
nhớ mấy năm trước Hà–nội ta có mấy ông
tên đồn lừng lẫy xuốt Bắc–kỳ, v́ ganh
nhau đốt pháo lúc đám rước rồng
Hội–quản đi qua cửa, ư ?
Đó là mấy nết hay của cái pháo đó ! Mà
mỗi một ngày cái pháo một khéo. Xưa c̣n Phượng–vĩ một su một
bánh, sau có Măn–địa–hồng hào hai; sau mỗi ngày
một văn–minh, Măn–địa thêm chữ Toán, rồi
đến Ngũ–sắc, rồi đến Bàn–đào, Hạnh–hoa, rồi đến
tạch–đùng, pháo nổ hết lại ṣe ra một
tờ–giấy bốn chữ “ Đinh–tài–lưỡng–vượng
“. Các chú thực là khéo lo cho nước Nam lắm tiền
quá. Âu tiến–bộ, xe–lửa nuốt đường
mỗi ngày một nhanh, trước c̣n 10, sau 100, sau nữa
120 kilometres một giờ. Á văn–minh, quả pháo ăn
bạc, mỗi ngày một tróng, trước c̣n su, sau hào,
sau nữa đồng bạc một phút. Chẳng có
thế tiền của nước Nam để đâu cho
hết ?
Nước Nam thua người học–hành
buôn–bán, nhưng cũng hơn
người được cái hách xằng, chớ lại
chịu hẳn rằng kém, sao ? T–N–T *
(Trích tạp chí
Đăng Cổ Tùng Báo, số 824, ngày 31–10–1907)
*T–N–T = Tân Nam Tử,
một trong các bút hiệu của cụ Nguyễn Văn
Vĩnh.
Nguyễn Văn Phổ,
Nguyễn Kỳ sưu tầm..
Nguyễn Lân Tường đánh máy nguyên văn
theo bản chụp lại.