THÓI TỆ
Lời thưa cuả người thực hiện: chúng tôi dựa trên bản chụp lại và cố
gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày
nay thì bài văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và
những chỗ chấm, phẩy và viết hoa. Không rõ những chỗ sai này do cụ Vĩnh
lầm, hay do hồi đó chưa có luật lệ rõ
rệt, hoặc gỉa cụ Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm cuả mình; vấn đề này
mong được các học gỉa nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực hiện chỉ
mong thấy sao chép vậy, vì chúng tôi quan niệm những bài viết này, ra đời cách
nay trên dưới 100 năm, vào thời kỳ phôi
thai cuả Việt ngữ, nên mang ít nhiều tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố
gắng giũ đúng nguyên bản vì chúng tôi
chỉ có bản chụp; bản chính được hình thành cách nay non một thế kỷ, vào lúc kỹ
nghệ in ấn và giấy mực còn thô sơ, rồi tài liệu đuợc lưu trữ gần một thế kỷ nên
ngay bản chính cũng đã mờ nhạt; nay chúng tôi có bản chụp cuả bản mờ nhạt nên không tránh khỏi có những chỗ không thể
nào phân biệt được chữ gì, dù đã dùng đến kính phóng đại. Trong trường hợp
đó, chúng tôi chỉ còn cách dựa trên ngữ
cảnh mà đoán.
Hiện chúng tôi đang sưu tầm thêm những tài
liệu về cụ Nguyễn Văn Vĩnh, quý vị nào có xin vui lòng liên lạc nguyenhongphuc54@yahoo.com . Xin đa tạ
Kính báo.
Mấy năm nay ở Hà–nội tự dưng thành ra một thói tệ, là khi có đám
cháy trong thành–phố, thì nhà nào nhà ấy đóng chặt cửa lại, còn người đi qua đi
lại thì chạy trốn. Sự đó bởi sao ? Có người nói là tại những lính phút–lít thấy
ai đến cứu cháy thì cứ đánh người ta, bắt người ta làm như cu–li; chớ không để
cho người ta được tự do, tùy sức mình mà cứu. Còn những nhà mà đóng cửa chặt
lại, là tại sợ những quân gian–đồ, nhân lúc dộn–dịp, vào cướp phá nhà người ta.
Tôi tưởng hai điều ấy cũng có thực, nhưng chúng ta không có nhẽ
bàn với nhau thế nào, cho khỏi được du ? Giá thử bây giờ mỗi một phố bao nhiêu
người giai trẻ bàn nhau, bất cứ người Tây, người Khách, hay là người An–nam, hễ
động thấy nhà nào cháy thì đến cả; cắt mấy người vào việc sách nước, mấy người
vào việc giữ cho kẻ gian khỏi hôi đồ của chủ nhà, còn bao nhiêu các người khác
thì để canh gác cho hàng phố và giữ kẻ gian. Một hai người thì lính phút–lít có
thể bắt nạt được, nhưng nhiều người thì tôi tưởng không có nhẽ họ dám đánh
mình?
Phải bàn nhau thế mới được, vì tôi trông thấy cháy mà giai trẻ
chạy cả; dù tại cớ làm sao mặc lòng, cũng lấy làm xấu hổ thay cho người nước
mình lắm. Có người đã trốn chánh thì chớ, lại không giấu mặt đi : như cháy ở
hàng Đường thì đứng một bọn đông, thập thò ở đầu hàng Ngang để xem, thấy xe
thụt–nước hoặc thấy lính phú–lít đến thì ồ chạy cả, lại còn vừa chạy vừa reo
nữa !
Tôi lấy thế làm hủ lậu lắm, đã rát thì chớ lại dợ–mọi nữa; cho nên
người ngoại quốc họ cười cho, mà họ cười là đáng lắm.
Việc ấy anh em đồng–bào mình phải bảo nhau, mới được.
Còn độ tết, những quân trộm cướp hay có vào nhỏ ra to, cũng vì
thế. Có người kêu mà chẳng thấy ai ra cứu sốt cả, nhà nào nhà ấy chỉ cứ chẹn
cửa cho rõ thật chặt, chẳng ai chịu thò ra.
Nhân việc ấy tôi xin bàn
với hàng phố một điều này :
Trong một phố, phàm giai từ 20 tuổi giở lên, đến độ tết phải cắt
nhau đi tuần, xin lĩnh Nhà–nước mỗi phố vài ba khẩu súng lục. Thí dụ, mỗi giờ
cắt năm ba người đi lại trong phố, mà có sợ lúc quân lính đến bắt nhầm, thì mấy
người đi tuần ấy phải có hiệu riêng.
Mà việc đi tuần cùng việc đi cứu hỏa, xin đừng cho là việc đê hạ.
Xưa kia mình có cái tục ăn–mày, thực là tục ăn–mày, cứ quan hay là
con quan, cùng người khoa mục, người giầu có, thì được miễn việc tuần giờ ; cho
nên ai ai cũng cứ cho việc tuần giờ là việc đê hạ. Đời nay tôi tưởng nên bỏ cái
hủ tục ấy đi. Phàm con giai ai cũng nên coi cái nghĩa vụ với hàng sóm láng
giềng, cùng việc binh vực kẻ yếu kẻ khổ, là một việc người anh hùng mới phải.
Không làm được nghề gì, phải đi gánh nước kiếm ăn, thì là đê tiện
thật; nhưng mà đi sách nước để cứu kẻ khổ thì là việc người anh hùng, không
phải là việc đê tiện.
Sức giai, mà tôi tưởng giời tháng giêng rét mướt tối tăm, ban đêm
vác khẩu súng hoặc cầm cái tay thước, đi tuần trong phố một vài giờ cho cha mẹ
mình, cha mẹ người, cho vợ con mình, vợ con người ngủ được yên; như thế thì khi
về nhà, tôi tưởng vợ con cha mẹ phải trọng hơn là khi đi đánh tài–bàn hay là đi
hát nhà–trò về.
(Trích tạp chí Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo,
số 798, ngày 2–5–1907).
Nguyễn Văn Phổ, Nguyễn Kỳ sưu tầm.
Nguyễn Lân Tường đánh máy nguyên văn theo
bản chụp lại.