MA TO DỖ NHỚN
Lời thưa cuả
người thực hiện: chúng tôi dựa trên bản chụp lại và
cố gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ
theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày nay th́ bài
văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp
chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và những chỗ chấm, phẩy
và viết hoa. Không rơ những chỗ sai này do cụ Vĩnh
lầm, hay do hồi đó
chưa có luật lệ rơ rệt, hoặc gỉa cụ
Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm cuả
ḿnh; vấn đề này mong được các học
gỉa nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực
hiện chỉ mong thấy sao chép vậy, v́ chúng tôi quan
niệm những bài viết này, ra đời cách nay trên
dưới 100 năm, vào
thời kỳ phôi thai cuả Việt ngữ, nên mang ít
nhiều tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói
cố gắng giũ đúng nguyên bản v́ chúng tôi chỉ có bản
chụp; bản chính được h́nh thành cách nay non
một thế kỷ, vào lúc kỹ nghệ in ấn và
giấy mực c̣n thô sơ, rồi tài liệu đuợc
lưu trữ gần một thế kỷ nên ngay bản
chính cũng đă mờ nhạt; nay chúng tôi có bản
chụp cuả bản mờ nhạt nên không tránh khỏi có những chỗ không thể
nào phân biệt được chữ ǵ, dù đă dùng
đến kính phóng đại. Trong trường hợp
đó, chúng tôi chỉ c̣n cách
dựa trên ngữ cảnh mà đoán.
Hiện chúng tôi đang sưu
tầm thêm những tài liệu về cụ Nguyễn
Văn Vĩnh, quư vị nào có xin liên lạc nguyenhongphuc54@yahoo.com . Xin đa tạ
Kính báo.
Phong tục An–nam ḿnh, nhiều điều
thật không có nghĩa lư ǵ.
Như có bố mẹ lên lăo, hoặc ḿnh đi thi
đỗ, cưới vợ, làm nhà, được làm
quan, thăng hàm, mà ăn mừng th́ c̣n có nhẽ; nhưng
bố mẹ chết, mà mổ trâu mổ ḅ, mời làng
mời nước, biếu–sén hàng sóm láng giềng, th́ c̣n có
nghĩa ǵ nữa ?
Có kẻ nói rằng : làm thế để giả
nghĩa cha mẹ. Cái điều cha mẹ chết đi,
hồn phách có c̣n mà trông thấy những sự
dương–gian hay không, th́
đây tôi không dám bàn, nhưng giả thử các cụ có
trông thấy, th́ chắc hẳn cũng lắm khi tức
cười. Kià như : có người, lúc cha mẹ c̣n
sống, coi như người ngoài, ra lườm vào nguưt,
bon tren từng tí; thế mà lúc cha mẹ vừa mới
nhắm mắt lại, đă ḅ ḅ, lợn lợn, cỗ
cỗ, bàn bàn, bán mẫu ruộng làm ma to, cầm khu
vườn lo dỗ nhớn.
Tôi nghĩ không giả nghĩa nào bằng : lúc cha
mẹ c̣n sống; nhà thường th́ cố làm ăn cho cha
mẹ được hiển vinh; nhà có th́ gắng nên tài
trí để cha mẹ được danh tiếng.
Tôi tưởng lúc ông–cụ bà–cụ nằm
xuống mà nghĩ được rằng:“ta đă sinh ra
được con có tài có đức, cho xă–hội
được nhờ; th́ dù ta từ trẻ đến
già, không làm nên điều ǵ, song đă để lại
được dọt máu tốt, để chuộc
lấy cái đời vô ích của ta“, th́ chắc hẳn các
cụ thỏa ḷng hơn rằng, chết rồi có tư–văn
hàng–giáp đến tế–lễ linh–đ́nh.
Cũng có kẻ nói là nợ miệng: ăn
của người th́ lại phải mời người
đến ăn.
Trong một đời người thiếu ǵ
dịp tiếp khách, lại phải nhân khi bố mẹ
chết mới tưởng đến ơn người
cho ta ăn một bữa. Th́ ra khi bố mẹ chết,
tưởng đến bố mẹ ít, tưởng
đến kẻ cho ăn nhiều.
Tôi tưởng làm người, thực có
hiếu với cha mẹ, th́ lúc cha mẹ thác đi, c̣n có
trí nào mà nghĩ đến những điều
thiệp–lịch mấy được, c̣n có bụng nào mà
để vào những sự tiếp đăi anh em.
Vả làm ra cỗ bàn lại hóa ra mất cả
ḷng thành hàng sóm láng giềng, bạn-bè thân-thích. Thành ra ai
cũng mang tiếng, vị có bữa cơm mấy đi
đưa bà con tới mồ, chớ không phải
thương vị tiếc bà con mà chịu khó nhọc
đi đưa đám.
Sau nữa lại c̣n một nỗi : vừa
mất cha mất mẹ lại c̣n vừa hết cơ
hết nghiệp, hết tang người rồi lại
đến tang của. Có
đâu lại làm như thế !
Những nhẽ tôi nói đây th́ ai cũng biết
cả, nhưng tại làm sao xưa nay vẫn biết
rằng xấu mà vẫn làm ? Ấy là v́ một
điều thiên hạ muốn khoe của.
Lạ quá ! Kỳ quá ! ở đời bao nhiêu lúc
để hách dịch mà chẳng hách cho !
Kià như : ḿnh cũng là người,
người ta cũng là người, mà có kẻ vật ḿnh ra, th́ không thấy biết
trọng thân. Để giữa khi bố chết hách
mấy đời một phen, khánh gia bại sản
cũng đành.
Thôi ! thế như mà,
có ông quân–tử đă nói rằng : giống
người không chữa được (mất 1
chữ) phải để
hách.
Giả như bây giờ những người
quân–tử và đàn anh trong làng nước, nghĩ ra
một cách đổi tục lại, phàm ai có cha mẹ
mất đi th́ tục lệ phải nộp vào cho dân vài
trăm quan tiền để làm tràng học, hoặc
mở cơ cục ǵ hay, th́ hàng–giáp hay là tư–văn
mấy đền tế–lễ,
như thế th́ cái hách của đứa giại
không phải chừa, mà
tiền của đứa giại vất đi, dùng
được làm điều tốt cho người khôn.
Các ông Cử, ông Tú bây giờ, xin đừng làm việc giời cao bể
giộng vội, xin hăng cứ bàn việc ấy thế nào
cho thành, th́ là nước được nhờ.
Thực–trí*
*Thực-trí là một trong các bút hiệu của
cụ Nguyễn Văn Vĩnh.
(Trích Đại Nam Đăng
Cổ Tùng Báo, số 796, ngày
18–4–1907).
Nguyễn văn Phổ, Nguyễn Kỳ sưu
tầm.
Nguyễn Lân Tường
đánh máy nguyên văn theo bản chụp lại.