HỘI DỊCH SÁCH
Lời
thưa cuả người thực hiện: chúng tôi dựa trên bản chụp lại và cố
gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày
nay thì bài văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và
những chỗ chấm, phẩy và viết hoa. Không rõ những chỗ sai này do cụ Vĩnh
lầm, hay do hồi đó chưa có luật lệ rõ
rệt, hoặc gỉa cụ Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm cuả mình; vấn đề này
mong được các học gỉa nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực hiện chỉ
mong thấy sao chép vậy, vì chúng tôi quan niệm những bài viết này, ra đời cách
nay trên dưới 100 năm, vào thời kỳ phôi
thai cuả Việt ngữ, nên mang ít nhiều tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố
gắng giũ đúng nguyên bản vì chúng tôi
chỉ có bản chụp; bản chính được hình thành cách nay non một thế kỷ, vào lúc kỹ
nghệ in ấn và giấy mực còn thô sơ, rồi tài liệu đuợc lưu trữ gần một thế kỷ nên
ngay bản chính cũng đã mờ nhạt; nay chúng tôi có bản chụp cuả bản mờ nhạt nên không tránh khỏi có những chỗ không thể
nào phân biệt được chữ gì, dù đã dùng đến kính phóng đại. Trong trường hợp
đó, chúng tôi chỉ còn cách dựa trên ngữ
cảnh mà đoán.
Kính
báo.
Hôm 26 tháng sáu trước, ở hội Trí–tri
Hà–nội, có hơn 300 người vừa người Hà–nội vừa người các tỉnh về họp để lập một
Hội dịch–sách.
Ông Nguyễn–văn–Vĩnh có đọc bài, diễn–
thuyết sau này :
Trình các Quan,
Ở thế–dan này, xem trong các nước, phàm
nước nào đã gọi là nước văn–minh, là cũng có văn–chương riêng cả, tiếng nói thế
nào, chữ viết như thế. Mà cái văn–minh người ta cũng ở đó mà ra, vì chữ có là
ảnh tiếng nói thì mới dùng để chuyền sự hay đi trong nước ai ai đều học được
cả. Cách chuyền tư–tưởng đi có hai cách : một là lấy miệng mà nói, thì chỉ ai
đứng nghe nói thì nghe được mà thôi, mà nói xong nhời nói có nhẽ quên đi được.
Một cách nữa là nghĩ điều gì hay, làm ra sách thì tư–tưởng chuyền đi được xa,
mỗi quyển sách in ra nhiều người đọc được, mà không đọc khi này, đọc khi khác,
có nhãng lại có thể đọc lại được. Chữ viết mà giống tiếng nói, thì một người
viết một quyển sách, in ra bao nhiêu quyển, đã hình như nhân cái miệng mình ra
bấy nhiêu lần, vì mỗi người mua một quyển sách ấy, mà đọc thì cũng như là thay
mình đứng mà nói. Sách chuyền được đi nhiều tư–tưởng mới càng ngày càng rộng ra
được, bàn soạn mỗi ngày một rành mạch ra, vì hễ có ít người xem tất ít người
bàn soạn nhời nói của mình. Người làm sách ít khi gặp người bẻ bác thì nghĩ
cũng không được chín bằng người viết ra một câu vạn ức con mắt nhìn vào, bẻ bai
thóc mách.
Các nước người ta văn–minh là do ở như
đấy. Như nước Nam ta có học hành đã mấy nghìn năm nay, mà tư–tưởng vẫn hẹp hòi,
người vẫn ngu–dốt, cũng vì tại đi học chữ mượn. Một người cầm quyển sách đọc mà
có hiểu ra nữa, thì cũng chỉ hiểu lấy
một mình, nữa huống chi là lõm bõm chữ biết chữ không. Mà sự không hiểu ấy, có phải tại ngu độn gì.
Tiếng tổ-tiên mình, tiếng mẹ du, nhời vú nói với mình, từ thuở biết ngồi, mà
học được hay cũng còn khó thay, nên huống chi là đi học chữ người, mà chữ người
ấy, cũng không phải là chữ tự–nhiên, vì bên Tầu, tiếng nói cũng không được y
như chữ viết. Như thế thì học làm sao cho thông được!
Chẳng qua từ xưa đến nay, trong những
người học nho, thì phần nhiều, chỉ học dã hình như người học câu thần-chú, để
mở cái cửa công đường đó mà thôi. Đeo đuổi hơn hai nghìn năm nay, cũng chỉ nghĩ
rằng : một võng–điều áo–gấm; hai cử tú,
ta cũng về dành thủ lợn ở làng; ba nữa là thầy khóa, thầy đồ ta cũng
chánh được xuất sưu xuất dịch hơn con em. Thực quả thế, vì nếu tại hay mà học
thì cả nước từ ông Sĩ–Vương đến giờ, cũng có lấy một người thầy hay mà đem dịch
ra tiếng bản quốc cho cả nước được học, để làm văn–chương mình, chứ sao lại không có ai nghĩ đến ?
Thôi ! thế nhưng bây giờ, cũng không nên
trách oán các cụ làm chi. Phàm thế-sự do ở như nhẽ giời. Từ xưa đến nay đất
nước Nam quả là dễ làm quá, người ở trong nước đủ ăn không phải đi đến đâu, cho nên ai cũng nghĩ đến hai bữa tênh
tênh, ra đình ngồi mâm cao cỗ đầy là xướng, cho nên cũng không cần dùng phải
học gì nữa, hèn, thì có ruộng–liền, ao cả rồi, thì nghiên là ruộng, bút là cầy,
cũng đủ phong lưu................
...................*
Trái cầu này có của một mình ai đâu ! Giời
đã sinh ra người ở trên mặt đất, ở chỗ này đông quá, phải chuyển đi nơi kia.
Đâu có đất phải làm. Nhẽ đâu lại có một góc nhiều người không có đất đủ mà ở,
không có ruộng mà làm, mà một góc còn dư đất bỏ không ? Sự san sẻ ấy thực là
lòng Giời. Nhưng, thủ hiểm một mình một góc, rắc răm ba hột thóc đủ cơm ăn, thì
tùy tiện, cứ nằm ngửa há mồm đợi quả dơi mà nuốt cũng xong; đến lúc có người
khác đến, lại phải vào trường chanh–cạnh; phải theo người đua sức; tay khéo
miệng no, nằm co chịu đói.
Kẻ hèn lấy điều ấy làm nhục, tôi tưởng
rằng: ở đời người chỉ vui có cuộc đấu tài.
Chứ cứ khoanh tay, mà có ăn cũng
là uổng một đời, đến lúc chết, lại không biết sinh ra để làm gì. Có cạnh chanh,
mới có học hành mới có tư–tưởng. Người hơn cầm thú, chỉ có một cái tư–tưởng.
............ ..................... *
Cứ như thế thì tôi thiết tưởng bây giờ mà
muốn cho dân trí An–nam chóng mở mang ra, thì phải có sách bằng tiếng nôm.
Nhưng trong nước ta bây giờ, chưa có ai có tài mà làm được nên quyển sách để
dậy dân. Dẫu có học chữ ngoại quốc, mà hiểu được một vài ý hay nữa, mà có làm
ra sách mới, thì vị tất đã có ai xem, vì cách tư tưởng của mình xưa nay, huyền
hồ viển vông, bây giờ nghe những nhẽ mới cũng khó vỡ. Vậy trước khi xem được
những sách bắt chước ngoại quốc mà làm ra, thì dân phải đã biết qua những ý
nguyện ấy. Sau nữa lại còn một nhẽ rằng : người ta không ai chịu ai, một người
có làm ra quyển sách bây giờ, những người xem cũng không để vào tai, vì mình đã
quen xưa nay chỉ học sách của thánh. Có họa bây giờ, những người học được các
sách hay của ngoại quốc, mà cố đem
tiếng bản–quốc dịch ra rõ được ít nào hay chút ấy, thì người ta xem đến, dẫu
không biết được hết nghĩa, nhưng cũng vỡ được đại khái, khi đã có nhiều người nghe phang–phác được
cái tư–tưởng của người ta, rồi lúc bấy giờ có mượn những tư–tưởng ấy mà làm ra
sách nôm ta thì mới có nhiều người hiểu.
Vì nhẽ ấy, cho nên chúng tôi định lập ra
Hội dịch sách này.
Chắc rằng làm việc là việc bạc, vì bây giờ
đem sách người mà dịch ra tiếng bản–quốc, nếu cứ dịch cho đúng từng chữ thì xem
không thể hiểu được. Tất phải dịch lấy nghĩa. Lấy nhời nhẽ ta mà giải nhời nhẽ
người. Đến lúc thiên–hạ xem hiểu nhiều
rồi, tất có người rạch–rỏi muốn biết nghĩa thâm–trầm thì lại đem dịch lại,
nhưng lúc bấy giờ dịch kỹ mới có người hiểu. Chúng tôi cũng biết rằng sách dịch
ra bây giờ, đời sau là có người chê, nhưng có thế mới gọi là tiến–bộ, chúng tôi
cũng sẽ thỏa lòng rằng : mình đã có cắm nêu lên trước, cho nên mới có kẻ theo
hút sau.
Các quan bây giờ mà dúp vào lập thành cho
cái Hội này, thì cái công–đức các quan thực là to nữa. Thực là đúc một quả
chuông to, vì quả chuông này, đánh một tiếng rồi kêu mãi, mà có tiếng chuông này
rồi mới nẩy ra trăm nghìn tiếng khác liên thanh, tai hậu–thế lúc nào cũng nghe
được tiếng hay.
Cái phúc các quan làm thực là to, là vì
không lập thành hội thì không sao làm nổi việc này:vì làm ra một quyển sách bây
giờ in ra tốn nhiều tiền, phải chắc có người xem mới dám in, mà có người có tài
có công nhưng kém vốn, thì có làm ra sách cũng đến bỏ sách mọt một góc tủ mà
thôi.
Lập nên một hội, người có của, kẻ có công,
mỗi người dúp vào một ít. Trước nữa người làm chắc tay làm có người đọc, sau
nữa người dúp của tuy chỉ cốt dúp vào cho xong công việc, nhưng mỗi tháng được
một quyển sách, lúc rảnh hẳn cũng xem cho. Vả dịch được ít nào in dần ít ấy,
hay dở sẽ biết trước, đến lúc làm xong, nên in hay không sẽ hay, khỏi tốn công
của. Sau nữa có hội, mới đua chanh nhau cái tiếng học giộng văn hay, và có đoàn
thể với nhau, đã có ước, thì không chễ nãi được, người tài đã vào hội, thì phải
cố sức làm cho đều việc, để giữ nhời ước với hội.
Còn như nên dùng chữ nôm hay chữ quốc–ngữ,
thì chắc các quan cũng nghĩ như chúng tôi:nước Nam có muốn hòng một mai tiếng
nói có thể nhiều tiếng ra, tiếng nhiều vần thêm bớt vô cùng, thì phải dùng một
lối chữ có vần. Có nhiều ông đã nghĩ ra một lối chữ mới, cũng chắp nét điệu
lắm, nhưng hễ còn dùng chữ một–vần–một, thì muôn đời tiếng nói không giộng ra
được.Cũng may! dù khéo thế nào mặc lòng, một thứ chữ một người đặt ra không ai
chịu theo. Vả chữ viết có in tiện, thì dùng mới tiện. Như lối chữ quốc-ngữ, thì
có 25 chữ, sắp lại tiện mà chóng lắm. Còn như cái chữ nôm cuả mình ngày xưa,
thì thực nên bỏ. Chữ phải có mẹo mực, chớ một chữ mà đọc nhiều cách viết nhiều
cách được, thì khó học lắm.
Bây giờ ta nên sét xem dịch thì nên dịch
sách gì trước.
Điều ấy phải để tùy–ý những người dịch, vì
những người đã có thể dịch được, tất học–thức đã giộng, dân An–nam đương cần
học gì tất cũng đã biết, bây giờ chắc hẳn những điều cao kiến lắm, dân mình xưa
nay trí khôn chỉ là là mặt đất cũng chưa với đến được. Chắc các ông vào việc
dịch sẽ chọn những sách phổ thông. Mỗi thứ phải có một ít, cách–trí, bác–vật,
hóa–học, toán–học, cơ–khí học, thương–mãi học là điều cốt nhất.
Lẽ tất trong hội các quan cũng nhiều người
ngoại thư cũng đã giộng, bây giờ dịch những sách phổ thông thì cũng khí chán
nên xin thế nào cũng có dịch một hai điều cao–kiến như kinh–tế học, chính –trị
học,.. (mất mấy chữ).. Tiếng An–nam mình đến ngày nay cũng gần có mực thước
rồi, cũng nên làm sách tự–điển để định tiếng nào nghĩa nào, sơ cố ở đâu, cho có
mực, có nơi tra cứu.
Còn như sách nho,vốn đạo Nho là gốc cách
ăn ở, gốc phong-tục nước mình, ta nên giữ lấy, vì trước khi bỏ một đạo hãng
phải có sẵn đạo khác hay hơn mà thế vào đã! Vả sửa lại thì sửa chớ việc chi phải
bỏ đạo Nho là đạo thực hay: kìa như sách nho đã có mấy nghìn năm nay mà xem
những ý mới Âu-châu bây giờ cũng nhiều ý không ra ngoài tứ–thư ngũ–kinh. Sách
thì hay nhưng học không hay cũng chỉ vì vụng học. Giá bây giờ dịch ra tiếng
nôm, mỗi bài chính–văn lại lấy nhời nhẽ nôm mình mà bàn cho kháp vào thực sự
thì có nhẽ hay.
Chốc nữa tôi xin đọc để các quan nghe
những điều lệ hội mà chúng tôi đã thảo, xin các quan nghe có điều gì nên sửa
cho tiện thì các quan sửa cho.
Những số tiền đóng, thì chúng tôi đã tính
chiếu theo số 1000 hội viên. Hễ được số ấy,
thì có thể mỗi tháng in được cho mỗi ông một quyển nhỏ độ 120 trang, khổ
Tân–dân–tùng báo, giấy cũng vậy.
Nhược bằng không được số ấy, thì hội hãng sẽ
in thạch bản, xem tạm vài tháng, đến khi có đủ số hội-viên sẽ in bản sắt.
Việc này lại còn có ích một chút nữa, là
người An–nam bây giờ nhiều ông muốn mở nhà in, nhưng trước khi mở một cái nhà
in, phải chắc có việc làm đều, tháng nào cũng có, mới mở được. Giá hội này của
ta thành, rồi về sau lại mở được vài cái nhật–báo nữa, thì nghề in có nhẽ mở
mang ra được to.
Nguyễn Văn Vĩnh.
(Trích tạp chí Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo,
số 813, ngày 15–8–1907, và số 814, ngày 22-8-1907)
Nguyễn Văn Phổ, Nguyễn Kỳ sưu tầm.
Nguyễn Lân Tường đánh máy nguyên văn theo
bản chụp lại.
*… sách bị mất một số đoạn.