CHẾT V̀ GẠO
Lời thưa cuả
người thực hiện: chúng tôi dựa trên bản chụp lại và
cố gắng sao chép đúng với nguyên bản. Cứ
theo luật lệ chính tả và văn phạm ngày nay th́ bài
văn có nhiều chỗ sai, nhất là ở các cặp
chữ s/x, ch/tr, gi/r/d, và những chỗ chấm, phẩy
và viết hoa. Không rơ những chỗ sai này do cụ Vĩnh
lầm, hay do hồi đó
chưa có luật lệ rơ rệt, hoặc gỉa cụ
Vĩnh chủ trương viết theo cách phát âm cuả
ḿnh; vấn đề này mong được các học
gỉa nghiên cứu làm sáng tỏ. Riêng chúng tôi khi thực
hiện chỉ mong thấy sao chép vậy, v́ chúng tôi quan
niệm những bài viết này, ra đời cách nay trên
dưới 100 năm, vào
thời kỳ phôi thai cuả Việt ngữ, nên mang ít nhiều
tính chất lịch sử. Ở trên chúng tôi nói cố
gắng giũ đúng nguyên bản
v́ chúng tôi chỉ có bản chụp; bản chính
được h́nh thành cách nay non một thế kỷ, vào
lúc kỹ nghệ in ấn và giấy mực c̣n thô sơ,
rồi tài liệu đuợc lưu trữ gần một
thế kỷ nên ngay bản chính cũng đă mờ
nhạt; nay chúng tôi có bản chụp cuả bản mờ
nhạt nên không tránh khỏi
có những chỗ không thể nào phân biệt được
chữ ǵ, dù đă dùng đến kính phóng đại. Trong
trường hợp đó,
chúng tôi chỉ c̣n cách dựa trên ngữ cảnh mà
đoán.
Hiện chúng tôi đang sưu
tầm thêm những tài liệu về cụ Nguyễn
Văn Vĩnh, quư vị nào có xin liên lạc nguyenhongphuc54@yahoo.com . Xin đa tạ
Kính báo.
Nước Nam ḿnh xưa nay ngu hèn, buôn bán không
biết, cách đi lại không biết, trong một
nước cũng một tiếng nói mà Nam chê Bắc
cọc–cạch, Bắc chê Nam
ậm–ọc; thuật pháp ǵ không biết, đồ khí
dụng thậm bất tiện mà từ thượng
cổ thế nào bây giờ cũng vẫn thế, không
thấy tí ǵ là tiến–bộ; sự đó là bởi đâu
?
Bởi cả nước có một nghề: là
cầy ruộng !
Điều ấy mới nói không ai tin, nhưng
ngẫm đi ngẫm lại th́ quả thế.
Nước ta, từ Bắc đến Nam, dân
chỉ có một nghề, làm lấy mà ăn, không phải
đi đến đâu sốt cả.. Sự đó cũng không phải là tại tính
người. Ấy là tại địa–thế.
Đồng bằng nhiều,
cách san–sẻ nước dễ hơn là nơi cao
nơi thấp. Thầy địa–lư nói đất
sơn–cao thủy–thâm là đất hay, là nơi phải làm,
nhưng không phải v́ nhẽ thế. Núi cao khó ở,
ở được tất phải khôn ngoan mới
biết được cách trống được với
gió to, rét nhớn; sông sâu mới khó vận nước
đi mà giồng–giọt làm ăn, muốn vận
được tất phải dùng mưu dùng mẹo khôn
ngoan. Máy móc là đây mà ra..
Trong một nước, nơi cao nơi thấp;
nơi đất khô, nơi đất ướt; chỗ
giồng lúa, chỗ nuôi ḅ, nuôi dê; chỗ chuyên công nghệ;
nơi chỉ nông thương; th́ trong nước
người tỉnh nọ tỉnh kia mới đi lại
trao–đổi, nay đây mai
đó. Có đi lại mới sinh ra đường xá
phẳng–phiu, giữ ǵn trắc–trắn; trước c̣n
lấy xe ngựa làm nhanh; sau cứ đua nhau nhanh măi, v́
việc buôn bán đến trước nhau một ngày
một giờ là lợi, rồi mới sinh ra cái hỏa
xa, hỏa thuyền.
Nơi ẩm thấp th́ lúa má gạo thóc, chỗ
cao ráo th́ giồng dâu trăn tằm. Đất ẩm tùy
nhiều ít nước giồng cây nọ hay giồng cây
kia. Đất cao tùy gần sông gần bến th́ buôn bán
đổi trác, tải đi chỗ nọ chỗ kia. Xa đường không tiện
th́ làm nơi chế tạo. Anh đi cầy vác gạo
đến bán cho bác làm thợ ăn; bác thợ mộc
đóng bàn đóng ghế cho chú nọ nằm ngồi; bác
trăn tầm dệt the lụa cho các bác kia may áo. Đi
lại luôn luôn, ganh nhau giầu có. Kẻ có trí nghĩ cách
tiện nọ, phép dễ kia cho chúng được
nhờ, để ta làm giầu lấy tiếng; kẻ
giầu có thừa ăn thừa mặc nghĩ cách chơi
bời để cho mấy bác dẻo tay ngồi rồi
mới sinh nghề nịnh mắt, nịnh tai. Các sảo
nghệ do ở đó. Trong nước đủ ăn,
đủ mặc, đủ chơi rồi mới nghĩ
đến xuất dương.
Trước là thi ra lưng quảng mỡ, sau nữa
là nếm xem của lạ của ngon. Sau ra quộc chanh
buôn chanh bán. Đi đến đâu cũng muốn là nhà.
Tầu sắt chạy như tên do ở đó. Súng bắn
một phút bẩy viên cũng đó mà ra, v́ trước là
đi hống hách xa nhà, sau nữa là cách dữ dào, ngăn
dậu.
Cứ như
thế th́ trắc rằng một nước văn minh,
giầu mạnh, là do ở như cách làm ăn trong
nước. Trong nước
có đầy nghề nọ đó nghề kia mới khôn
ngoan được. Thế mà nước Nam ta từ
thượng cổ đến giờ vẫn chỉ có
một nghề làm ruộng. Nơi nào làm nơi ấy
ăn, không phải đem đi đâu cả, dư
dụng th́ người đến tận nhà mua đi cho
nên không biết ǵ cả. Gián hoặc các nghề mỗi
thứ cũng có một ít,
nhưng chẳng thấm vào đâu. Những làng chuyên
nghề khác như Bát–tràng, nung gạch,
Thụy–chương nấu riệu nuôi lợn th́ là hăn
hữu. C̣n bao nhiêu đất là chỉ độc có
một giống thóc gạo mà giồng thôi. Bất
đắc dĩ mới phải giồng thứ khác,
như mía, như dâu, như gai, như đay, như café, vân
vân.
Giồng thóc gạo th́ dễ thực, nhưng từ
xưa đến nay cũng chỉ nhờ Giời,
nắng quá cũng đói, mưa nhiều cũng đói. Cho
nên dân nước Nam tuy lúc b́nh thường cũng dễ
làm ăn, nhưng là được no ấm cũng là
phải “nô–lệ th́ tiết.“
Nước Nam lại c̣n ngu hèn v́ một nỗi
nữa, là Giời nóng lắm, mà cái nóng ấy tại
địa thế cũng có, nhưng tại nghề làm
ruộng cũng có.
Kể ra nước Nam, nhất là mạn Bắc
ta này, cũng xa xích độ không kém ǵ phiá nam nước
Pháp, cũng na ná bằng I–pha–Nho, I–đại–lợi.
Thế mà ba nước ấy thời tiết mát mẻ là
bao nhiêu. Về mùa hạ th́ Giời cũng nắng to,
nhưng chỉ ngoài đường nắng thôi, c̣n trong nhà
vẫn mát dời dợi, là v́ đất khô ráo, không có
hơi nước sông lên. Như ở nước ta th́
đâu có ruộng là phải có nước, thế mà nào có
được nước trong nước sạch. Cho nên
hễ động nắng th́ nước lên hơi, rồi
gió tản đi, chỗ nắng chỗ dợp, chỗ nào
cũng nóng nực, người cứ ướt át khó
chịu vô cùng, nóng quá cái óc người không được
minh mẫn, nghĩ không được điều hay v́
chóng nhọc, làm cũng không được mấy. Cái khí
nước ấy lại c̣n độc v́ ô uế, sinh ra
trứng bịnh thực nhiều.
Nhưng mà chẳng nhẽ Giời đă sinh ra
nước Nam ta có một nghề từ thượng
cổ đến nay, mà lại dỏi đi thế nào
được. Làm người không tin rằng dỏi
một nghề có nhẽ làm khác được thời
tiết một phương giời đi được,
thế mà trắc thực thế đấy. Cố ư
ngẫm mà xem. Về mùa nực làm sao bao nhiêu chỗ cao
như các núi mát hơn ở đồng bằng ? Lúc có gió
th́ đổ ra tại gió đă đành, nhưng lúc im gió
cũng mát lạnh đi là nghĩa làm sao ? V́ là cao làm hơi
nước nóng không lên được tới nơi. Đi
chơi các nhà–quê có ư mà xem : những đồng có
nước th́ bức khó chịu hơn những chỗ
nước chẩy mà đất khô. Thế hóa tôi bảo
rằng ông Địa–lư lúc t́m dương–cơ mà hay
sợ những úng–thủy cũng không phải là nói láo.
Cứ như tôi thiển nghĩ, th́ người
An–nam có cách đổi được thời–tiết
nước Nam, không những là thời–tiết mát mẻ
hơn lên, phong tục lại c̣n biến cải đi;
học hành, tư tưởng cũng khác đi. Cách
đổi ấy là : ta không nên lấy gạo làm cốt nữa.
Nên kiếm giống khác mà giồng, nhất là những
giống ǵ không cần phải nước lũng bũng
như thóc lúa, như những giống sinh ra
được sợi mà dệt vải.
Chúng ta phải biết rằng : phàm ở
thiên–hạ này, nước nào chuyên về nghề làm cho
người ăn, là trong nước không ra ǵ, mà hễ
động đói th́ ḿnh đói trước. Như
nước Pháp, nước Anh, đất giộng hơn
ḿnh bao nhiêu, thế mà lúa làm bánh cũng do ở Mỹ
chở sang. Nghĩ mà xem, chẳng qua cũng là chao
đổi chớ có thiệt ǵ. Chúng đem lúa cho ḿnh, th́
ḿnh đă có riệu vang, the,
lụa, vóc, vải đánh đổi. Lúc nào cũng
chắc có gạo, v́ một mùa có mất th́ mất một
thứ không có nhẽ mất cả. C̣n bột làm bánh th́
chắc bao giờ cũng không thiếu, v́ vốn là bột
đi mua ở ngoài về, chỗ này không có th́ mua chỗ
khác, bất quá đắt rẻ một ít, nhưng bao
giờ cũng có ăn.
Một nước làm gạo ăn đi bán cho
người quanh năm cứ đinh ninh vào đầy.
Đến lúc động đói th́ ḿnh đói trước,
ai biết đâu mà mang đến cho ḿnh ăn.
Vả cái gạo này lăi không là mấy, trong các
thứ giồng được có lắm thứ một
vốn thực bốn lăi, nhưng ḿnh không chịu nghĩ,
chịu t́m, chịu thử, cho nên không biết đấy
mà thôi.
Hỡi các ông mong cường–thịnh
độc–lập, ơi ! Tôi tưởng con
đường này phải đi trước. Người
có trí mà lại có của bây giờ nên lo cái việc
đổi cách giồng giọt trong nước, cho nước
được mát mẻ, không đói, mà lại
được đi lại buôn bán giộng ra, rồi
mới giảng đến Lư–thoa dân ước,
đến Vạn–pháp tinh lư của Mạnh–đức–thủ–cựu, th́ mới phải. T. –N. –T*.
(Trích tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo, số
818, ngày 19–9–1907) .
*T–N–T=Tân Nam Tử, một trong các bút hiệu
của cụ Nguyễn Văn Vĩnh.
Nguyễn Văn Phổ,
Nguyễn Kỳ sưu tầm.
Nguyễn Lân Tường đánh máy nguyên văn
theo bản chụp lại.